Các Bài Thuốc Hay (sưu tầm - ông Trần Bảo Hảo )


Bài " Bát vị"
- Thục địa : 20 g , hoài sơn : 10g, bạch phục linh: 10g, sơn thù : 4g, mẫu đơn bì : 4g, trạch tả : 4g , phụ tử : 4g, nhục quế: 4g. ( 8 Vị thuốc).
 Bổ sung thêm : ngưu tất : 4g, sa tiền tử: 4g, mạch môn: 4g, ngũ vị tử(tẩm mật): 20 hột , để lợi tiểu , hạ huyết áp. ( 4 Vị thuốc).
(Nhục quế là loại vỏ dầy, ít cay, cạo bỏ lớp vỏ mỏng. Nếu uống quế mỏng , cay nhiều, dễ gây xuất huyết bao tử)

Thục địa:  bổ thận âm, bổ máu . Phụ tử, Nhục quế: tính rất nóng,  bổ thận dương, bổ mệnh môn hỏa. Ngưu tất, sa tiền tử:  lợi tiểu. Các vị khác hổ trợ tăng tác dụng cho thuốc.
     ( Phụ tử có tác dụng rất mạnh, rất nóng, không kinh mạch nào trong cơ thể mà không tới được, nhưng có độc tố, chỉ được sử dụng tối đa 8gr trong 1 thang thuốc , nhưng nếu không sử dụng thì không thể phục hồi thận dương được).

Bài này có tác dụng bổ thận âm, thận dương, và lợi tiểu, tăng bài tiết các chất độc trong cơ thể ra ngoài, lưu thông các mạch máu nuôi thận, phục hồi lại thận.(với liều lượng trên, bổ dương nhiều hơn bổ âm một chút ).
     Cần gia giảm phù hợp với từng người, từng giai đoạn của bệnh:
Nếu thận dương quá suy: Bổ mạnh thận dương bằng cách tăng nhục quế, phụ tử gấp đôi. (Tăng như vậy thuốc rất nóng, khi uống thì từng ít một để theo dõi, khi đủ rồi thì ngưng).
- Nếu thận âm quá suy: Bổ mạnh thận âm bằng cách tăng thục địa gấp đôi.
Chỉ hoàn toàn bổ thận âm: bài bát vị bỏ phụ tử và nhục quế, trở thành bài lục vị.
Nếu bí tiểu: tăng ngưu tất, sa tiền tử gấp đôi.
Nếu tỳ vị yếu : tăng hoài sơn gấp đôi.
Nếu huyết áp thấp: chỉ dùng bài bát vị ( 8 vị thuốc, không thêm 4 vị còn lại), đồng thời sắc nước nhân sâm đặc mà uống kèm. Khi sắc xong bài bát vị, thêm nước nhân sâm vào uống chung.
  Nhân sâm có tính bổ khí, tính thăng, nên làm tăng huyết áp.
  Kiêng kỵ: Khi người bị nóng sốt, bị cao huyết áp, nếu uống nhân sâm làm phát sốt cao hơn, gây nguy hiểm.
   (Cân chính xác liều lượng 3 vị : phụ tử, nhục quế, thục địa. Nếu cân sai có thể gây nguy hiểm.)
Chú ý quan trọng:
   Nếu gia giảm đúng với tình trạng, bệnh mau chóng khỏi, nếu sai thì không hiệu quả, nếu nghịch lại thì gây nguy hiểm.
  Bị cao huyết áp do suy thận, nếu gia giảm đúng thì giảm huyết áp, nếu sai thì không thay đổi, nếu nghịch thì huyết áp càng tăng.

Thận âm hư gây cao huyết áp, nhưng thận dương hư cũng gây cao huyết áp, hoặc các nguyên nhân khác . Do đó, không nên căn cứ vào huyết áp để xác định sự chênh lệch giữa 2 thận.


Nếu bạn chưa biết về thuốc, không nên tự ý sử dụng. Bởi vì có tác dụng mạnh sẽ mau khỏi bệnh, nhưng nếu dùng sai gây nguy hiểm. Các bạn nên sử dụng "Bát vị hoàn" và "Lục vị hoàn" tôi giới thiệu ở dưới, sẽ an toàn hơn.


Cách sắc thuốc và uống:
Cho 5 chén nước vào nấu còn 1 chén, chia làm 6 phần ,uống làm 2 ngày.
Do thuốc có tác dụng rất mạnh và nóng, không nên uống nhiều một lần.
    Sau khi uống, bạn sẽ thấy vùng thận sau lưng nóng lên, hoặc đau, nếu sờ vào vùng thận sau lưng sẽ thấy ấm rõ rệt, đó là dấu hiệu thuốc đang tác dụng hồi phục lại thận. Bạn sẽ đi tiểu nhiều hơn, nước tiểu rất khai và có thêm mùi thúi, đó là thận đang bài tiết các chất độc trong thận mà làm tắc nghẽn mạch máu nuôi thận. Khi các chất độc này được bài tiết ra ngoài, những mạch máu nuôi thận sẽ được phuc hồi, do đó thận sẽ tốt lại bình thường.

Sau khi uống vài thang, bạn cảm thấy cơ thể khỏe hơn, lúc này bạn có thể giảm chạy thận từ từ.
1 tuần còn 2 lần, rồi 1 lần. Bạn tiếp tục uống vài thang nữa, rồi sau đó bỏ hẳn. Trong thời gian này, bạn theo dõi kỹ xem có vấn đề gì không. Nếu bỏ hẳn chạy thận mà cơ thể vẫn bình thường, có nghĩa là bạn đã khỏi hẳn. Vậy xin chúc mừng bạn.

Một số bài thuốc cần hỗ trợ thêm:

-Tứ quân : bổ khí tỳ phế, tính nóngNgười già cả, người có cơ thể yếu đuối, ăn uống kém, bị hạ huyết áp,
Nhân sâm lát 10 gram, bạch truật (sao vàng):10 g, bạch phục linh: 5g , cam thảo : 2 g. Nghiền thành bột để uống. Dạng bột uống mỗi ngày 4g-8g.

Tứ linh:  lợi tiểu và bổ thêm khí tỳ vị . Bạch truật 10g, phục linh 10g, trư linh 10g( hoặc thay bằng sa tiền tử), trạch tả 10g. Nghiền thành bột để uống. Dạng bột uống mỗi ngày 4g- 8g. (Nếu người lạnh thêm 4 g  quế mỏng. Quế mỏng lợi tiểu tốt hơn nhục quế)
    Đang bị suy tim, người phù, thêm bột nhục quế  và mật ong vào uống.

Bài Lục nhấtChữa sốt, tiểu tiện đỏ, tan sỏi thận, bàng quang. Hoạt thạch(bột talc): 6gram, cam thảo: 1gram. Tán bột uống với nước ấm. Mỗi lần 4 gram.

Hổ phách lợi tiểuTrị tiểu tiện nhỏ giọt. Hổ phách nghiền bột: 4gram, hành tím: 5 củ, nấu lấy nước cho bột hổ phách vào uống.

Từ thạch hoàn: Trị cao lâm, nước tiểu dính như cao: Từ thạch (nung lửa, nhúng vào dấm 37 lần), Nhục thung dung (tẩm rượu, thái ra, sấy), Trạch tả, Hoạt thạch , 4 vị đều 40g. Tán nhuyễn, trộn với mật làm thành viên, to bằng hạt ngô đồng. Mỗi lần uống 30 viên với rượu ấm (Từ Thạch Hoàn – Thánh Tế Tổng Lục).

- Thuốc lợi tiểu thông lâm, trị các chứng phù, viêm đường tiết niệu, viêm thận:
+Trạch tả 10g, Xa tiền thảo 10g, Trư linh 10g, Thạch vỹ 10g, Mộc thông 6g, Bạch mao căn 15g, sắc nước uống.
+Trạch tả, Bạch phục linh, Trư linh, Xa tiền tử đều 12g, sắc nước uống. Trị viêm cầu thận cấp.
+Trạch tả, Bạch truật đều 10g, Cúc hoa 12g, sắc uống trị viêm thận mạn, váng đầu.

 

Tứ vật   Bổ huyết cho ganmát gan .  Thục địa 10g, đương quy 10g, bạch thược 5g, xuyên khung 3g . Nghiền thành bột, mỗi ngày 4g-8g.
  Trị bệnh viêm gan siêu vi B. Bài tứ vật thêm vài loại thuốc giải độc như: phòng phong: 4gr, tần giao:4gr.
  Cách đây 3 năm tôi có trị cho một thanh niên gần 30 tuổi mắc bệnh này, người nóng da sậm, sau khi uống 5 thang thì hết bệnh, người mát lại, da sáng lên.
  Trị đi cầu táo bón ra ít máu do thiếu máu, người nóng. Bài tứ vật thêm nhục thung dung: 10gr.
  Thường uống vài thang là khỏi.
  Nếu uống bài tứ vật mà người mệt kém ăn thì uống xen kẽ bài tứ quân

Quy tỳBổ máu cho cả gan, tỳ, tim, kèm theo bổ khí. Nhân sâm lát 10g, hoàng kỳ 10g, bạch truật 10g, đương quy 10g, cam thảo 4g, phục thần 10g, viễn chí 10g, táo nhân 10g, long nhãn 10g, mộc hương 4g, thêm 3 lát gừng, 3 quả táo tàu.( Nếu nghiền bột thì bỏ long nhãn, gừng, táo tàu cho dễ nghiền)
 Nghiền thành bột, mỗi ngày uống 4g-8g hoặc sắc uống ấm.
     (Táo nhân nếu sao đen trị bệnh mất ngủ , để sống trị bệnh ngủ nhiều, tùy theo mà sử dụng thích hợp)
     (Nếu muốn bổ tim nhiều hơn bổ tỳ, bỏ mộc hương, thêm hạt sen: 10g )
     (1 muỗng cafe thuốc = 4 gram).
    Bài này trị bệnh sưng lỡ môi miệng, nhiệt miệng lâu năm rất hay, thông thường chỉ uống vài thang là khỏi.
    Các bệnh ho ra máu, nôn ra máu hoặc đi cầu ra máu, uống vào đều khỏi.
   
- Nước gạo rang -gừng nướng Bổ khí tỳ vị , làm ấm bao tử. Trị bệnh tiêu chảy rất nhanh, thường chỉ 1-2 lần uống là khỏi, lại đơn giản.
  Gạo: 1 nắm, rang vàng đậm. Gừng : 3 lát, nướng cháy đen ngoài vỏ. Cho vào ly , chế nước sôi ngâm như pha trà.

Quế-mật ongBổ tỳ dương, mệnh môn hỏa. Trị kém ăn, người lạnh, da sạm đen, suy tim. Bột nhục quế: 1 muỗng cafe, mật ong: 2 muỗng cafe. Hòa nước ấm uống.
  Vào mùa đông giá rét, hoặc những người sống vùng băng giá, nên uống bài này để giữ ấm cho cơ thể, tránh bị đột quỵ do quá lạnh, nhất là người lớn tuổi.
( Nếu uống quế mỏng dễ gây xuất huyết bao tử).

Câu kỷ tửBổ tinh tủy, bổ máu, trị khô xương khớp, sáng mắt. Có tác dụng nhanh chóng. Mỗi ngày ăn sống 20 hột. Kiêng kỵ khi bị tiêu chảy.
     Câu kỷ tử tính bình, vị chua ngọt, thận âm hoặc dương suy đều dùng được. Có tác dụng giải ure trong máu. Tăng tác dụng trong quá trình phục hồi thận. Giá rẻ, khoảng 20.000đ/lạng, sử dụng 1 tháng mới hết. Các bạn nên sử dụng thêm vì rất đơn giản nhưng hiệu quả bất ngờ.

Sinh mạch thang: Bổ phổi. Nhân sâm: 12gr, Mạch môn: 8gr, Ngũ vị tử(tẩm mật): 40 hột. Sắc uống ấm.

- Tứ quân - lợi tiểu: Bổ khí tỳ phổi, lợi tiểu .Bài tứ quân thêm các vị lợi tiểu như: Trạch tả: 4gr, mộc thông: 4gr, trư linh: 6gr.
  Thêm táo tàu: 2 quả, Gừng 3 lát. Sắc uống ấm.

Tứ quân- Tiêu đàmBổ khí tỳ phổi, tiêu đàm. Bài tứ quân thêm các vị tiêu đàm như: Trần bì: 5gram, bán hạ: 5gram. Nghiền thành bột, mỗi ngày uống 4g-8g.

Bổ trung ích khí: Bổ tỳ phế. Hoàng kỳ(sao với mật ong): 4gr, Nhân sâm: 6gr, Bạch truật: 6gr,  , Đương quy(tẩm rượu sao): 4gr, Trần bì(sao thật vàng): 2gr, Cam thảo (tẩm  mật): 2gr, Sài hồ: 2gr, Thăng ma: 0,4gr.
  Thêm táo tàu: 2 quả, Gừng 3 lát. Sắc uống ấm.

-  Lý trung thang Bổ tỳ dương. Nhân sâm : 12 gr, Bạch truật (sao vàng): 8 gr, Gừng khô: 4 gr, Cam thảo: 2gr. ( 4 vị thuốc)
  Nghiền thành bột, mỗi ngày uống 4g-8g.

- Phụ tử lý trung thang : Bổ mạnh tỳ dương, thận dương . Bài Lý trung thang thêm phụ tử:2gr.( 5 vị thuốc).
   Nghiền thành bột, mỗi ngày uống 4g-8g.

Quế phụ lý trung thangBổ tỳ dương, thận dương, mệnh môn hỏa. Bài lý trung thang thêm nhục quế: 4gr, phụ tử: 2gr.( 6 vị thuốc).
   Nghiền thành bột, mỗi ngày uống 4g-8g.

Điều nguyên cứu bản thang : Bổ mạnh tỳ dương, thận dương : Bạch truật(sao vàng): 40gr, Hoài sơn(sao vàng): 20gr, Thục địa(nướng):8gr, Thỏ ty tử: 16gr, Phá cố chỉ: 12gr, Nhục quế(mài ngoài): 4gr, Phụ tử: 4gr.
  Nghiền thành bột, mỗi ngày uống 4g-8g. Hoặc sắc uống ấm.

- Trợ dương phương Bổ mạnh tỳ dương, thận dương. Trị đờm suyễn, khó thở, huyết áp cao do thận dương hư.
Bạch truật(sao vàng): 30gr, Mạch môn(sao): 10gr, Gừng nướng đen: 10gr, Ngưu tất: 8gr, Phụ tử: 3gr, Ngũ vị tử(tẩm mật): 3gr.
     Nghiền thành bột, mỗi ngày uống 4g-8g. Hoặc sắc uống ấm.

Thanh kim đạo khí phương: Mạnh phổi, lợi tiểu, trị nôn khan, khó thở.  Mạch môn(sao với gạo): 8gr, Xa tiền tử(sao qua): 4gr, Xích phục linh: 4gr, Trạch tả(tẩm muối sao): 6gr, Nhục quế(mài ngoài): 4gr, Ngưu tất: 4gr, Ngũ vị tử(tẩm mật): 20 hột, Trầm hương(mài ngoài): 2gr, Gừng sống: 3 lát.
    Nghiền thành bột, mỗi ngày uống 4g-8g. Hoặc sắc uống.

Bát trân : Bổ khí huyết, đi vào trong. Hợp bài tứ quân và tứ vật.
     Nghiền thành bột, mỗi ngày uống 4g-8g hoặc sắc uống.

Thập toàn đại bổ: bồi bổ khí huyết, đi ra ngoài da, ra chân tay . Hợp thang tứ quân và tứ vật, gia thêm hoàng kỳ: 10gr, nhục quế(mài ngoài): 2gr.
      Nghiền thành bột, mỗi ngày uống 4g-8g hoặc sắc uống.

Nhị long ẩm: Bổ mạnh tinh huyết, trị kém ăn, mặt úa vàng, không ngủ, da khô, tóc rụng . Cao ban long: 20gr, long nhãn: 20gr. cho 2 chén nước nấu còn 1, chia 4 lần uống trong 2 ngày.

Do một số bạn hỏi về trị bệnh tiểu đường, nên tôi nêu 2 bài thuốc rất đặc sắc của Hải Thượng Lãn Ông để trị bệnh này, tôi cũng từng dùng bài này để điều trị và có kết quả khả quan. Bệnh tiểu đường thường do thận âm, tỳ âm suy, nếu nặng thì cả thận dương, tỳ dương suy.
Bồi thổ cố trung thang bổ tỳ dương, tỳ âm. Bạch truật (sao vàng): 20gr, Thục địa(nướng): 10gr, Cam thảo(tẩm mật ong nướng): 2gr, Gừng (nướng đen): 2gr.
(Nếu thận suy thì uống kết hợp bát vị hoàn, lục vị hoàn.)
     Nghiền thành bột, mỗi ngày uống 4g-8g, Hoặc sắc uống.

Toàn chân nhất khí thang : bổ thận âm, thận dương, tỳ âm, tỳ dương.( Bổ âm nhiều hơn bổ dương).
Thục địa: 30gr, Bạch truật: (sao vàng hạ thổ):15gr, Mạch môn: 12gr, Ngũ vị tử(tẩm mật): 20 hột, Ngưu tất: 8gr, Phụ tử: 4gr, Nhục quế: 4gr, Đỗ trọng: 10gr.
  Nếu phổi yếu thêm nhân sâm: 10gr.
   Nghiền thành bột, mỗi ngày uống 4g-8g, Hoặc sắc uống.

Tiểu thừa khí: Giải độc, nhuận trường, trị ngứa do ure cao, bụng chướng, nôn, lỡ miệng, một số bệnh ung thư hệ tiêu hóa. Tính mát. Bài này quan trọng, có tác dụng thải nhiều loại độc tố trong cơ thể, giúp mau khỏi bệnh. Mỗi đợt uống 3 ngày, cách 1-2 tuần. Người không bệnh khi uống bài này giúp phòng nhiều bệnh.
Đại hoàng: 10gr, hậu phác: 4gr, chỉ thực: 4gr. Nghiền bột, mỗi lần uống 2-4 gr, ngày 1 -2 lần. Khi đi cầu ra nhiều đàm nhớt là tốt.

Nhị trần thang: Tiêu đàm ở phổi. Trị đàm suyễn, ung thư phổi do đàm, nước tràn dịch màng phổi, viêm phế quản, nôn.
Trần bì: 16gr, bạch phục linh: 8gr, gừng khô: 8gr, bán hạ: 8gr, cam thảo: 4gr. Nghiền bột, mỗi lần uống 4gr, ngày 1 -2 lần.

Cấp cứu thủybổ tim, bổ tỳ vị, bổ mệnh môn hỏa, tính nóng. Trị suy tim, trúng gió liệt nữa người, cứng cổ gáy.
Nhục quế: 40gr, đại hồi: 40gr, gừng khô: 40gr, hoàng kỳ: 20gr. Nghiền bột, mỗi lần uống 2-4 gr, ngày 1-2 lần. Nếu quá lạnh, mỗi giờ uống 1 lần tới khi ấm người, sau đó uống giảm dần.

Các bài thuốc trên nếu nghiền bột, khi uống bạn thêm 1 muỗng cafe mật ong thì dễ uống và tăng tác dụng của thuốc. Khi nghiền bột xong cần phơi khô, bỏ vào lọ kín, để nơi khô ráo, tránh ẩm ướt.

 

Toa rượu bổ của Chủ tịch Mao Trạch Đông tặng Chủ tịch Hồ Chí Minh
19:8', 19/12/ 2004 (GMT+7)
Bài thuốc này do Chủ tịch Mao Trạch Đông tặng Chủ tịch Hồ Chí Minh trong những năm tháng tình hữu nghị giữa hai dân tộc Việt Nam và Trung Quốc thắm thiết nhất. Vì vậy, bài thuốc này có một ý nghĩa lịch sử vô cùng to lớn.
Sau khi được tặng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phổ biến và được nhiều người sử dụng đem lại hiệu quả rất tốt. Những người làm việc bằng trí óc khi dùng bài thuốc này thì không thấy mệt mỏi, trí óc sáng suốt, minh mẫn, ăn ngon, ngủ được. Còn những người làm việc chân tay gân cốt dẻo dai, lao động không biết mệt.
Thành phần bài thuốc:
1. Nhân sâm (nhị bông sâm) 40g      ( Nhân sâm lát)
2. Long nhãn nhục 40g
3. Dâm dương hoắc 40g
4. Lão thục địa 24g                         ( Thục địa)
5. Đẳng sâm 24g
6. Đương quy 24g
7. Bắc đỗ trọng (sao muối) 20g        ( Đỗ trọng)
8. Hoàng tinh 20g
9. Nhục thung dung 20g
10. Hắc táo nhân 20g                      ( Táo nhân sao đen)
11. Bạch phục linh 15g
12. Bạch truật 16g
13. Chích cam thảo 16g                   ( Cam thảo tẩm mật ong)
14. Bạch thược 16g
15. Tục doạn 16g
16. Cam kỷ tử 16g                          ( Câu kỷ tử)
17. Ngưu tất 12g
18. Đại táo 10 quả
19. Đường phèn 300g                     ( Có tài liệu nói 120g)
Cách ngâm: Thuốc đổ vào thẩu ngâm với 5 lít rượu ngon, sau 7 ngày lọc lấy rượu thuốc. Xong, nấu nửa lít nước sôi, hòa tan với đường phèn rồi đổ trộn với rượu thuốc mà dùng. Còn nước hai thì đổ 2 lít rượu ngon, ngâm 1 tháng sau mới dùng.
Mỗi ngày uống 3 lần, sáng 1 ly nhỏ, trưa 1 ly, tối 1 ly, uống sau khi ăn cơm và trước khi đi ngủ.
Bài thuốc này có tác dụng đại bổ khí huyết, điều hòa tang phủ. Bổ nhất là thận, tim, thần kinh, ngăn ngừa các bệnh phong, tê thấp, sốt rét hoặc sốt rét mới khỏe. Nếu bồi dưỡng thang này, chứng sốt rét không tái lại.
. Lương y Thích Tuệ Tam (st)
(Theo báo Thừa Thiên Huế). Sưu tầm. Nguồn: https://www.baobinhdinh.com.vn/603/2004/12/17259/
 

     Bài này có tác dụng bồi bổ tổng hợp âm dương khí huyết tinh tủy gân xương, hổ trợ rất tốt cho người bệnh. Các bạn nên sử dụng thêm bài này. Người bị huyết áp cao cần cẩn thận.
Dấu ngoặt tên vị thuốc tôi giải thích thêm cho rõ.
PTS.

                                                ---------------------------------------
                                           TÁC DỤNG CƠ BẢN CÁC VỊ THUỐC.

- Bổ thận dương: phụ tử.
- Bổ mệnh môn hỏa: nhục quế.
- Bổ thận âm: thục địa.
- Bổ khí: nhân sâm, hoàng kỳ, bạch phục linh, bạch truật, hoài sơn, thỏ ty tử, phá cố chỉ...
- Bổ huyết: đương quy, bạch thược, xuyên khung,...
- Lợi tiểu: trạch tả, trư linh, sa tiền tử, mộc thông, hoạt thạch, hổ phách, hành củ...
- Giải độc: phòng phong, tần giao.
- Tiêu đờm: trần bì, bán hạ.
- Dẫn xuống: ngưu tất.
- Dẫn lên: sài hồ, thăng ma.
- Tán ra ngoài: quế mỏng, hành củ, gừng sống.
- Tính thu liễm: ngũ vị tử, gừng nướng đen, mạch môn, phục thần, hạt sen.
- Hành khí: trầm hương, mộc hương, gừng sống.
                                           -------------------------------------------------

Do các tiệm bán thuốc mỗi nơi gọi các tên quế khác nhau, nên tôi ghi ra đây để các bạn phân biệt cho đúng:
-Nhục quế: là loại vỏ dày ở thân cây, cạo bỏ lớp vỏ mỏng, ít cay, tác dụng đi vào trong, làm ấm bên trong cơ thể. Các bài thuốc trên chủ yếu dùng loại này. Khi sử dụng mài ngoài.( Nghĩa là nấu thuốc xong mới cho vào uống, vì quế kỵ lửa). Hiện giờ bột nhục quế xay sẵn bán khoảng 10000đ/lạng.
-Quế chi( Bạc quế): là loại vỏ quế mỏng ở cành cây, cay nhiều, tác dụng đi ra ngoài da, ra chân tay, chủ yếu giải cảm.
-Quế tâm: Phần gỗ cây quế, vị ngọt, đi vào tim, trị các bệnh về suy tim.

Chú ý: Các bài thuốc có phụ tử mà không có thục địa kèm theo là những bài bổ dương rất mạnh, thường dùng trong cấp cứu, chỉ nên sử dụng liều lượng ít, thời gian ngắn, khi giảm bệnh thì chuyển sang những bài khác nhẹ nhàng hơn.

   Các bài thuốc này không có sẵn trên thị trường, bạn ra tiệm thuốc bắc cắt về rồi nghiền thành bột mà dùng.
   Các loại thuốc trên bạn cho vào cối xay tiêu của máy sinh tố mà nghiền thành bột . Nếu bị ẩm khó nghiền, bạn cho vào ít bột năng sẽ dễ nghiền hơn.

  Tôi cũng khuyên bạn nên làm sẵn vài bài thuốc hay dùng, cho vào hộp, dán nhãn , ghi tên thuốc , công dụng mỗi loại. khi cần thiết có sẵn mà dùng. Bởi vì khi uống thuốc thận sẽ có một số trường hợp xảy ra, ta phải dùng thuốc ứng phó cho kịp thời.

   Các loại thuốc trên phổ biến, rẻ tiền, mua ở tiệm thuốc bắc. Mỗi thang khoảng 15000đ- 30000đ.
   Do liều lượng tôi cho nhỏ nên một số tiệm không bán, vậy bạn nhân 2-5 lần khối lượng lên mà mua.

   Tuy thuốc rẻ tiền, nhưng công hiệu rất đặc biệt, Đó là do sự phối hợp các vị thuốc tài tình của các danh y ngày xưa.

Ghi chú:
  Uống thuốc bổ thận nhiều, thận tốt hơn nhưng sẽ làm tỳ vị suy yếu, người mệt mỏi kém ăn. Khi gặp trường hợp này, bạn tạm ngưng uống thuốc bổ thận vài ngày mà thay bằng bài "tứ quân", hoặc"Lý trung thang" hoặc "thập toàn đại bổ", hoặc "quy tỳ" hoặc " Bồi thổ cố trung thang".
  Tốt nhất nên uống xen kẽ thuốc thận và thuốc bổ tỳ trong ngày.

  Lưu ý quan trọng : 
      Đối với việc chữa bệnh thận, Uống thuốc cho cân bằng hai thận âm dương là điều rất quan trọng. Nó quyết định việc chữa khỏi hay không.
     Bạn cần hiểu rõ cách gia giảm để có thể tự mình điều chỉnh cho thích hợp với tình trạng của mình. Ở đây điều chỉnh chủ yếu là thục địa trong bài bát vị. Nếu thận âm suy nhiều thì tăng thục địa, bỏ quế, bớt phụ tử. Còn nếu thận dương suy nhiều thì giảm thục địa.

Giải thích thêm cách trị bệnh để bạn có thể gia giảm thuốc tùy theo trường hợp của mỗi người :
    Trong cơ thể , để khỏe mạnh cần có sự quân bình về âm dương , khí huyết. Âm là nói về thận âm, dương chỉ thận dương. Khí chỉ nguyên khí của tỳ, phế, huyết nói về máu chứa ở tim gan .  Thận âm chủ về tạo máu, có tính mát. Thận dương chủ về hỏa, có tính nóng. Thận dương tàng trữ năng lượng , giống như nhà máy phát điện, để cung cấp năng lượng cho toàn bộ cơ thể, duy trì mọi hoạt động bình thường.
  Khi thận âm , thận dương cân bằng, cơ thể sẽ khỏe mạnh, khi một thận bị suy yếu, cơ thể sẽ bị xáo trộn gây bệnh tật:
+Thận âm suy gây tình trạng thiếu máu, tăng huyết áp, người nóng, xuất huyết....
+Thận dương suy gây tình trạng suy nhược cơ thể, người lạnh, hạ huyết áp...
 (Có trường hợp cũng tăng huyết áp, nguời nóng...)
  Cách bồi bổ cho thận cũng trái ngược nhau. Thuốc bổ cho thận dương có tính rất nóng, còn thuốc bổ cho thận âm lại rất mát.
  Khi một thận bị suy gây chênh lệch giữa hai thận , ta cần phải bổ cho thận bị suy để đạt đến sự cân bằng. Khi đã đạt đến sư cân bằng, cơ thể sẽ khỏi bệnh và hoạt động tốt trở lại. Lúc này ta cũng ngưng uống thuốc. Nếu cứ tiếp tục uống nữa, Lại gây ra tình trạng chênh lệch, ta lại bị những bệnh khác.
    Thông thường có 2 trạng thái bệnh, 1 thận bị suy hoặc cả hai thận đều bị suy. Nếu một thận bị suy, ta chỉ cần bổ cho thận suy là đủ. Nếu cả hai thận đều bị, ta cần bổ cho cả 2 .Khi cả 2 thận bị suy, ta cần xét xem thận nào suy nhiều thì uống thuốc bổ thận đó nhiều hơn.


   Còn nói về khí huyết, cũng cần quan tâm đặc biệt. Khí thường gọi là nguyên khí, chứa ở tỳ , phế, có công năng tiêu hóa thức ăn, duy trì sức mạnh của phổi, cung cấp năng lượng cho hoạt động của tim, gan. Nếu khí yếu sẽ làm hạ huyết áp, bí đường tiểu, người lạnh. Còn huyết chứa ở tim gan, có tác dụng tuần hoàn nuôi dưỡng cơ thể. Nếu thiếu huyết sẽ làm người nóng, gây ra các bệnh về huyết.
  Khí huyết trong cơ thể cũng cần đạt sự quân bình, nếu chênh lệnh cũng gây ra bệnh.

  Khi chữa bệnh ở thận, thường sẽ làm khí huyết suy yếu, làm người mệt mỏi kém ăn, vì vậy cần chú ý bồi bổ khí huyết cho cân bằng.
   Tốt nhất vừa bổ thận vừa bổ tỳ vị. Có thể uống xen kẽ thuốc bổ tỳ vị như bài lý trung, tứ quân, quy tỳ, nước gạo rang...

   Tim phổi thuộc vùng thượng tiêu,  tỳ thuộc vùng trung tiêu, gan thận thuộc vùng hạ tiêu. Chú ý bồi bổ cho ba vùng đạt sự quân bình.

Tóm tắc:
   Âmdương, khí huyết như tứ trụ trong cơ thể. Tứ trụ này có vững, có quân bình thì cơ thể mới mạnh khỏe. Khi 1 trụ bất kỳ bị suy yếu đều có thể gây rối loạn sự hoạt động và sẽ gây ra bệnh tật trong người. Vì vậy, Trong việc chữa bệnh bằng đông y, việc phát hiện trụ nào suy yếu để bồi bổ cho đạt sự quân bình là rất quan trọng, Nó quyết định quan trọng nhất trong việc trị liệu. Như Hải Thượng Lãn Ông từng nói: Người ta có hàng trăm bệnh khác nhau, chẳng qua chỉ là mất quân bình về âm-dương- khí -huyết, cách chữa trăm bệnh cũng như cách chữa một bệnh mà thôi.
                 ----------------------------------------------------------------------------


   Hiện giờ trên thị trường có bán " Bát vị hoàn" , " Lục vị hoàn" của công ty dược phẩm OPC. Giá 50.000đ/hộp. Mỗi hộp có 240 viên, nhỏ như hột đậu đen.
"Bát vị hoàn" bổ thận dương, tính nóng
"Lục vị hoàn " bổ thận âm, tính mát.
    Các bạn nên mua 2 loại này về uống cho tiện, dễ gia giảm, khỏi cần phải sắc thuốc.
    Thuốc này tốt mà lại rẻ . Được bào chế đúng với bài bát vị cổ truyền. Tôi hướng dẫn liều lượng dựa trên thuốc này.
    Mỗi hộp uống khoảng 15 ngày .(Mua ở tiệm thuốc bắc hoặc tiệm thuốc tây)

Thông thường, khi chạy thận nhân tạo, thận dương suy nhiều hơn, nên các bạn chú ý uống bát vị hoàn, còn lục vị uống khi thấy người bị nóng. Nếu uống nhiều lục vị, người sẽ rất lạnh, bị phù người, gây tràn dịch màng phổi, hoặc phát sốt.
    Bài bát vị có tác dụng bổ thận rất mạnh, chỉ cần uống vài thang là có tác dụng phục hồi thận đáng kể.